Nội Dung Chính
ĐIỂM YẾU CHUNG CỦA NGƯỜI VIỆT: LƯỜI BIẾNG – DỄ HÀI LÒNG
Khi nói về bản tính của người Việt, chúng ta thường tự hào rằng “người Việt cần cù và hiếu học”, thế nhưng giáo sư, tiến sĩ Trần Ngọc Thêm, nhà văn hóa học thì cho rằng đấy là một sự ngộ nhận.
Nói về đức tính của cả dân tộc là một vấn đề lớn, nhưng nếu thật sự chúng ta cứ ngộ nhận, không hiểu chính mình, không hiểu dân tộc mình, cứ tự ru ngủ nhau, thì chúng ta không thể phát huy được điểm mạnh, khắc phục điểm yếu, làm đúng lĩnh vực mình mạnh nhất, thì chúng ta không thể đưa cá nhân mình, gia đình mình thoát nghèo, đưa dân tộc Việt, nước Việt thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, sánh vai với bạn bè quốc tế.
Nhận định về một dân tộc chăm chỉ hay lười biếng thì không thể tự đóng cửa với nhau, mà phải so với các dân tộc khác; cũng không thể lấy một vài người, một vài nhóm người mà nhận xét mà phải nhìn trên bình diện cả xã hội xem số đông chăm chỉ hay số đông lười biếng.
Dưới góc độ nhìn nhận trên bình diện cả xã hội, so sánh với các dân tộc khác thì tôi cho rằng người Việt không chỉ lười lao động, người Việt còn lười học, lười suy nghĩ, lười vận động.
Về Lao động, tính cả cuộc đời người Việt là dân tộc có số năm làm việc thực sự ngắn hơn các dân tộc khác.
Ông Hirosuke, ông chủ người Nhật của nhà máy bánh kẹo Tango Candy ở Tân Đức, Đức Hòa, Long An bị công ty quản lý khu công nghiệp Tân Đức đổ đất lấp đường vào nhà máy tháng 3/2016 đã 77 tuổi. Ngài Tomokazu Hamaguchi, ủy viên Hội đồng Quản trị FPT sinh năm 1944, nghĩa là 72 tuổi ông vẫn là Ủy viên HĐQT một tập đoàn Công nghệ thông tin lớn nhất Việt Nam. Ngài Ogawa Takeo cố vấn của FPT Japan sinh năm 1939 tức năm nay đã 79 tuổi, năm 2009, khi về hưu đã 70 tuổi ông vẫn nhận lời làm Tổng giám đốc FPT Japan.
Vào thời điểm năm 2016, khi tham gia ứng cử viên tổng thống Mỹ thứ 45, Bà Hillary Clinton đã 69 tuổi, còn ông Donald Trump đã 70 tuổi. Nếu trúng cử tổng thống Mỹ thì bà Hillarry Clinton sẽ làm tổng thống Mỹ tối thiểu đến năm 73 tuổi, còn ông Donald Trump sẽ làm tổng thống Mỹ tối thiểu đến năm 74 tuổi.
Trong khi đó người Việt Nam ta 60 tuổi đã lên lão, nữ 55 tuổi, nam 60 tuổi đã về hưu, chưa kể sĩ quan cấp uý, cấp tá quân đội còn về hưu sớm hơn, có người 50, 52, 54 tuổi đã về hưu. Trong khi người Nhật, người Singapore, người Mỹ về hưu họ vẫn tiếp tục đi làm thêm thì người Việt về hưu là không làm việc. Người Việt rất hứng thú “vui thú tuổi già”, “vui thú điền viên”, “sum vầy bên con cháu”…
Chưa kể với nền văn minh lúa nước, ở nông thôn (chiếm 70% dân số) đã hàng ngàn năm nay người nông dân chỉ lao động vất vả có mấy tháng mùa vụ còn phần lớn thời gian trong năm là không có việc làm và rất nhiều người coi đấy như một sự hiển nhiên. Ở đồng bằng Nam bộ thời xưa nhiều vùng còn không phải trồng lúa, lúa trời tự mọc, đến khi lúa chín mới đánh xuồng đi thu hoạch.
Nghề trồng lúa nước mang tính thời vụ rất cao, lúc gieo cấy và gặt hái thì rất vất vả, đúng là đầu tắt mặt tối, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, ai cũng nhìn thấy là rất vất vả, rất cần cù, rất chăm chỉ. Thế nhưng khoảng thời gian giữa lúc gieo cấy đến lúc thu hoạch kéo dài vài tháng, thời gian giữa thu hoạch vụ trước đến gieo cấy vụ sau cũng cả tháng. Thời gian ấy họ lại chơi là chính.
Thói quen lao động tháng làm, tháng nghỉ đã tồn tại hàng nghìn năm ấy, ngày nay đã được rất nhiều người mang ra thành phố, dù có làm việc ở nhà máy, xí nghiệp, công trường họ vẫn không bỏ được thói quen nghỉ nhiều hơn làm.
Ở Thành phố số thanh niên thất nghiệp, không việc làm, ngày ngày la cà quán sá, cà phê, chơi bài cả ngày. Họ than thở, oán trách đổ lỗi cho chính quyền mà ít người có ý chí lập nghiệp. Rất ít người nghĩ mình tự lập nghiệp, tự tạo ra công ăn việc làm cho chính mình và cho xã hội. Những người có việc làm ở công sở thì hoặc sáng đến muộn giờ, hoặc đến đúng giờ chỉ để điểm danh rồi đi ăn sáng, giữa giờ làm việc thì lại chốn ra quán cafe giải khát ngồi tán gẫu. Không ở đâu lại có nhiều quán cafe, giải khát, quán nước vỉa hè, quán bia hơi, quán nhậu nhiều như Việt Nam mà quán nào cũng đông khách cả trong giờ làm việc.
Lười lao động, thích ăn chơi thể hiện rất rõ trong câu ca dao:
Tháng giêng là tháng ăn chơi
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè
Tháng tư đong đậu nấu chè
Ăn tết đoan ngọ trở về tháng năm.
Chưa hết, người Việt có rất nhiều lễ hội. Theo thống kê mỗi năm người Việt có gần 8000 lễ hội, từ lễ hội dân gian, lễ hội lịch sử, lễ hội tôn giáo, lễ hội du nhập từ nước ngoài; lễ hội cấp quốc gia, lễ hội cấp tỉnh, lễ hội cấp tổng, cấp xã, cấp làng; Từ tết nguyên đán, lễ vu lan, tết trung thu, lễ giáng sinh, hội phù đổng, hội gióng, hội lim, lễ hội bà chúa xứ…; từ lễ hội đền Hùng, đền Trần cấp quốc gia đến lễ hội đền làng, đền tổng… có lễ hội diễn ra chỉ 1 ngày, nhưng cũng có những lễ hội kéo dài 3 tháng như lễ hội chùa hương.
Như vậy trong quá khứ ông cha ta một năm ít nhất đã chơi, không lao động 3 tháng. Một điểm lạ là càng những người thuộc nhóm nghèo thì ý thức lạo động càng kém, càng lười. Hầu hết người giúp việc gia đình thì nghỉ tết đến tận rằm tháng giêng, công nhân xây dựng, cầu đường, giao thông thì hầu hết nghỉ hết tháng giêng.
Trong xu thế tuổi thọ con người ngày càng tăng, hầu hết các nước đều nâng tuổi về hưu (Mỹ 67 tuổi, Nhật 68 tuổi, Pháp 62 tuổi…) thì Việt Nam vẫn giữ nữ 55, nam 60 từ cách đây 62 năm khi mà tuổi thọ thấp hơn hiện nay 13 tuổi. Khi có dự thảo nâng dần tuổi về hưu thì nhất loạt phản đối, họ gán ngay cho lãnh đạo tham quyền cố vị muốn ngồi ghế lâu nên sửa luật, họ bất chấp luật hưu trí qui định khi tuổi thọ của Việt Nam chỉ có 62.5, trong khi hiện tại tuổi thọ đã tăng lên đến 75, bất chấp xu thế tăng tuổi nghỉ hưu của cả thế giới.
Một đất nước đã có nhiều lợi thế như Singapore (HUB của khu vực) mà lại chăm chỉ lao động, ai ai cũng làm việc, kể cả những người già 65-75 tuổi thì họ giầu có là điều hiển nhiên.
Một đất nước đã không có nhiều lợi thế mà lại lười lao động, thanh niên không chịu lập nghiệp, nằm chờ người khác tạo công ăn việc làm cho mình, giờ làm việc thì bớt xén giờ giấc, người còn sức lao động, chưa già đã muốn nghỉ “an nhàn tuổi già”, “xum vầy bên con cháu” thì mãi mãi nghèo cũng là chuyện không thể khác.
Không chỉ lười lao động, người Việt còn lười suy nghĩ, lười học, lười vận động.
Trên Facebook hoặc trên các diễn đàn không ít bạn “bàn phím” nhanh hơn “mắt”, chưa kịp đọc hết nội dung, chưa kịp hiểu hết ý người khác đã vội vã comment, vội vã bình luận, thậm chí chửi bới. Bất cứ vấn đề gì xẩy ra trong cuộc sống không nghĩ sâu theo tính hệ thống, xem tổng thể cả hệ thống tốt hay không tốt mà nhìn ngay những lỗi nhỏ, vụn vặt. Chính vì lười nghĩ nên hay đánh giá sự vật, con người theo hình thức, giàu thì đi xe phải sang, phải dùng đồ hiệu, tiêu phải nhiều tiền. Chính vì lười nghĩ nên dễ bị truyền thông dắt mũi.
Cuộc sống là của mình, hạnh phúc là của mình mà rất nhiều người luôn trông chờ vào “nhà nước” vào “chính quyền”. Người nghèo thì mong được chính phủ chăm lo cứu xét, không muốn thoát nghèo; người thông minh, có học hành mà chưa thành công thì tất cả tội lỗi là của cấp trên, của chính quyền, của thể chế, luôn luôn thường trực trong đầu suy nghĩ rằng chỉ cần các ông thay đổi tự khắc tôi sẽ giàu, dân tộc sẽ giàu mà không bao giờ nghĩ rằng trước hết phải tự thay đổi chính bản thân mình, trước hết là phải chăm chỉ.
Về học hành, thoạt tiên ai cũng nghĩ người Việt có truyền thống hiếu học, thế nhưng thực chất người Việt hiếu danh thì đúng hơn. Thời trước các sĩ tử đi thi với mong muốn được khắc bia tiến sĩ, được vinh qui bái tổ về làng, được bổ làm quan, được rạng danh dòng họ, chứ không phải học để nâng cao tri thức, kiến thức và năng lực bản thân. Ngày nay số người học hành để lấy điểm, lấy bằng cấp, để thăng quan tiến chức, để không thua bạn kém bè, thua con ông hàng xóm nhiều hơn số người học để lấy kiến thức, tri thức để làm việc tốt hơn. Vì thế mới có chuyện chạy thầy, chạy điểm. Vì thế mới có chuyện bùng nổ tiến sĩ. Vì thế mới có chuyện đặt mục tiêu có bao nhiêu tiến sĩ.
Trừ các học sinh trường chuyên, đa số những trường khác, học sinh rất lười, đặc biệt là rất lười đọc sách, rất lười tự học. Cứ nhìn số lượng các hiệu sách, số lượng độc giả đến hiệu sách, số đầu sách đọc trung bình một năm thì sẽ hiểu người Việt lười đọc sách thế nào.
Người Việt rất lười vận động, rất lười đi bộ, chỉ cần khoảng cách 100 mét họ cũng đi xe máy thay vì đi bộ (chúng ta đều biết ở nước ngoài đi bộ 500 m – 1 km là chuyện bình thường). Ở các toà nhà cao tầng, khi xếp hàng chờ thang máy đông, dù chỉ lên xuống 1-2 tầng nhưng không ai nghĩ là tự đi theo thang bộ sẽ nhanh hơn chờ thang máy. Khi cần sang đường lẽ ra leo lên cầu vượt hoặc đi bộ thêm một đoạn đến ngã tư đi bộ theo hàng đinh để sang đường cho an toàn thì rất nhiều người nhất định chỉ sang ngay chỗ muốn sang bất chấp nguy hiểm cho bản thân. Khi ai đó vận động hay khuyên đi bộ họ nghĩ ra đủ lý do nào là vỉa hề bị lấn chiếm, nào là bụi, nào là ô nhiễm, nhưng chính họ đi xe máy cũng bụi như thế và xe máy còn thải chất độc, gây ô nhiễm nhiều hơn.